Giới thiệu về Đông dược Phú Hà
Đông dược Phú Hà là nhà thuốc đông y gia truyền, đã nhiều đời các cụ chuyên dạy học và làm thuốc, được BS Nguyễn Đức Kiệt thừa kế và thành lập lại vào ngày 25/01/2005, vài năm sau ngày ông chính thức nghỉ hưu.
Tiền thân của Đông dược Phú Hà là Nhà thuốc đông y gia truyền Bạch Phú Hà. Từ ngày 16/05/2013, nhà thuốc được chính thức đổi tên thành Đông dược Phú Hà với bộ nhận diện thương hiệu, logo mới và website chính thức duocphuha.com.
Tên của Đông dược Phú Hà bắt nguồn từ chữ Phú trong Phú Xuyên và Hà trong Hà Tây (Hà Nội ngày nay) là quê hương của BS Kiệt.
Logo của Đông dược Phú Hà bắt nguồn từ hình tượng HOA GẠO, một cây gỗ vô cùng quen thân đối với người dân Việt Nam, đồng thời cũng là một vị thuốc dân dã và thông dụng nhưng được dùng trong nhiều bài thuốc quý mà BS Kiệt đã tư vấn, chia sẻ và phổ biến thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và trong suốt thời gian công tác trong ngành Y.
Đông dược Phú Hà tập trung vào nghiên cứu, phát triển và truyền lại cho các đời sau các bài thuốc đông y về chữa các đau dạ dày, ruột (Phú Hà Cửu Tán); bệnh sỏi thận (Thạch Lâm Thang); chữa viêm gan cấp và mạn tính; chữa yếu sinh lý và tăng cường sức khỏe nam giới (Phú Hà Thiên Quý Thang); thuốc rượu xoa bóp chữa chấn thương và nhiều bài thuốc gia truyền khác.
Tính tới năm 2013, đã có hàng nghìn bệnh nhân được BS Kiệt tư vấn và điều trị khỏi nhiều bệnh bằng các bài thuốc đông y. Ông đã có nhiều bài viết trên báo Sức khỏe và Đời sống và các báo khác để chia sẻ các thông tin về đông y, tây y, các bài thuốc quý chữa bệnh và nhiều vấn đề liên quan tới chăm sóc sức khỏe. BS Kiệt cũng viết bài và là cộng tác viên lâu năm của nhiều báo và tạp chí như: Sức khỏe & Đời sống, Gia đình & Xã hội, Phụ nữ, Lao động, Thế giới Mới, Thế giới Đàn ông, Thế giới trong ta, Hạnh phúc gia đình...
BS Nguyễn Đức Kiệt đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Thầy thuốc ưu tú năm 2005.
BS Nguyễn Đức Kiệt là một trong số ít các thầy thuốc điều trị có hiệu quả bệnh Hen phế quản mạn tính và các bệnh tự miễn khác (như Thấp tim, Viêm Cầu thận ...) bằng phương pháp chôn chỉ catgut vào các huyệt Giáp tích cạnh cột sống từ những năm 1970 của thế kỷ trước. Đây là một phương pháp có sự kết hợp các phương pháp của Trung Quốc, của GS Nguyễn Tài Thu, của BS Lã Quang Nhiếp, của BS Quan Đông Hoa mà thành, vì vậy nó không hoàn toàn giống với bất kỳ phương pháp nào của Việt Nam và Trung Quốc. Phương pháp này đã được BS Kiệt "chuyển giao công nghệ" cho Viện Điều dưỡng Lâm nghiệp (đóng tại Phúc Thọ, Hà Tây) năm 1978 và Viện Y học biển (đóng tại Hải Phòng) năm 2003. Phương pháp này rất đặc biệt, vì chỉ "chôn chỉ" vào các huyệt Hoa Đà Giáp tích tất cả 4 lần, năm thứ nhất 2 lần, cách nhau 2 tháng, năm thứ hai và thứ ba mỗi năm 1 lần "nhắc lại" để tạo ra kháng thể "giải mẫn cảm". Điều đặc biệt hơn nữa là bệnh rất hiệu quả đối với loại "hen dị ứng do cơ địa", một loại bệnh rất khó chữa không chỉ ở Việt Nam ta mà cả trên toàn thế giới. Đây là một phương pháp đơn giản, rẻ tiền, công hiệu và không hề có các dụng không mong muốn. Phương pháp này không phải là để cắt cơn, chữa triệu chứng mà là theo cơ chế "Miễn dịch trị liệu", chữa dứt điểm hẳn bệnh, do cơ thể tự điều chỉnh. Các cơ sở Y tế trên toàn quốc nếu có nhu cầu muốn "chuyển giao công nghệ", Nhà thuốc xin sẵn sàng "chuyển giao" miễn phí, miễn là giúp cho người bệnh nhiều được chừng nào, tốt chừng ấy.
Tiền thân của Đông dược Phú Hà là Nhà thuốc đông y gia truyền Bạch Phú Hà. Từ ngày 16/05/2013, nhà thuốc được chính thức đổi tên thành Đông dược Phú Hà với bộ nhận diện thương hiệu, logo mới và website chính thức duocphuha.com.
Tên của Đông dược Phú Hà bắt nguồn từ chữ Phú trong Phú Xuyên và Hà trong Hà Tây (Hà Nội ngày nay) là quê hương của BS Kiệt.
Logo của Đông dược Phú Hà bắt nguồn từ hình tượng HOA GẠO, một cây gỗ vô cùng quen thân đối với người dân Việt Nam, đồng thời cũng là một vị thuốc dân dã và thông dụng nhưng được dùng trong nhiều bài thuốc quý mà BS Kiệt đã tư vấn, chia sẻ và phổ biến thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và trong suốt thời gian công tác trong ngành Y.
Đông dược Phú Hà tập trung vào nghiên cứu, phát triển và truyền lại cho các đời sau các bài thuốc đông y về chữa các đau dạ dày, ruột (Phú Hà Cửu Tán); bệnh sỏi thận (Thạch Lâm Thang); chữa viêm gan cấp và mạn tính; chữa yếu sinh lý và tăng cường sức khỏe nam giới (Phú Hà Thiên Quý Thang); thuốc rượu xoa bóp chữa chấn thương và nhiều bài thuốc gia truyền khác.
Tính tới năm 2013, đã có hàng nghìn bệnh nhân được BS Kiệt tư vấn và điều trị khỏi nhiều bệnh bằng các bài thuốc đông y. Ông đã có nhiều bài viết trên báo Sức khỏe và Đời sống và các báo khác để chia sẻ các thông tin về đông y, tây y, các bài thuốc quý chữa bệnh và nhiều vấn đề liên quan tới chăm sóc sức khỏe. BS Kiệt cũng viết bài và là cộng tác viên lâu năm của nhiều báo và tạp chí như: Sức khỏe & Đời sống, Gia đình & Xã hội, Phụ nữ, Lao động, Thế giới Mới, Thế giới Đàn ông, Thế giới trong ta, Hạnh phúc gia đình...
BS Nguyễn Đức Kiệt đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Thầy thuốc ưu tú năm 2005.
BS Nguyễn Đức Kiệt là một trong số ít các thầy thuốc điều trị có hiệu quả bệnh Hen phế quản mạn tính và các bệnh tự miễn khác (như Thấp tim, Viêm Cầu thận ...) bằng phương pháp chôn chỉ catgut vào các huyệt Giáp tích cạnh cột sống từ những năm 1970 của thế kỷ trước. Đây là một phương pháp có sự kết hợp các phương pháp của Trung Quốc, của GS Nguyễn Tài Thu, của BS Lã Quang Nhiếp, của BS Quan Đông Hoa mà thành, vì vậy nó không hoàn toàn giống với bất kỳ phương pháp nào của Việt Nam và Trung Quốc. Phương pháp này đã được BS Kiệt "chuyển giao công nghệ" cho Viện Điều dưỡng Lâm nghiệp (đóng tại Phúc Thọ, Hà Tây) năm 1978 và Viện Y học biển (đóng tại Hải Phòng) năm 2003. Phương pháp này rất đặc biệt, vì chỉ "chôn chỉ" vào các huyệt Hoa Đà Giáp tích tất cả 4 lần, năm thứ nhất 2 lần, cách nhau 2 tháng, năm thứ hai và thứ ba mỗi năm 1 lần "nhắc lại" để tạo ra kháng thể "giải mẫn cảm". Điều đặc biệt hơn nữa là bệnh rất hiệu quả đối với loại "hen dị ứng do cơ địa", một loại bệnh rất khó chữa không chỉ ở Việt Nam ta mà cả trên toàn thế giới. Đây là một phương pháp đơn giản, rẻ tiền, công hiệu và không hề có các dụng không mong muốn. Phương pháp này không phải là để cắt cơn, chữa triệu chứng mà là theo cơ chế "Miễn dịch trị liệu", chữa dứt điểm hẳn bệnh, do cơ thể tự điều chỉnh. Các cơ sở Y tế trên toàn quốc nếu có nhu cầu muốn "chuyển giao công nghệ", Nhà thuốc xin sẵn sàng "chuyển giao" miễn phí, miễn là giúp cho người bệnh nhiều được chừng nào, tốt chừng ấy.
- Đông dược Phú Hà trên Facebook
- Đông dược Phú Hà trên LinkedIn
- Đông dược Phú Hà trên Alexa
- Bản đồ địa điểm
- Bản đồ địa điểm (Google Map)
Phóng sự về BS Nguyễn Đức Kiệt trên HTV1 ngày 29/05/2014
Giới thiệu về Bác sỹ Nguyễn Đức Kiệt
Gặp người một phần tư thế kỷ làm tổ chức cán bộ
GiadinhNet - Mặc dù đã nghỉ hưu được 7 năm nay, nhưng bác sĩ Nguyễn Đức Kiệt vẫn miệt mài nghiên cứu và viết sử về công tác tổ chức cán bộ ngành y tế.
Bác sĩ Kiệt cũng là người gắn bó với Vụ Tổ chức Cán bộ 25 năm, kinh qua tất cả các bộ phận như công tác tổ chức, công tác cán bộ, chế độ chính sách và bảo vệ chính trị nội bộ với vai trò là một chuyên viên. Nhân kỉ niệm 55 năm ngày thành lập Vụ Tổ chức Cán bộ, ông đã có cuộc trò chuyện với PV Báo GĐ&XH.
Bác sĩ Nguyễn Đức Kiệt sinh năm 1942, quê Phú Xuyên (Hà Tây cũ). Bác sĩ Kiệt đã cùng đồng nghiệp nghiên cứu sưu tầm tư liệu, chấp bút cho cuốn kỷ yếu công phu nhân kỷ niệm 55 năm hình thành và phát triển của Vụ Tổ chức Cán bộ - Bộ Y tế, giúp người đọc có thể hình dung được sự phát triển của Vụ Tổ chức Cán bộ nói riêng, ngành Y tế nói chung trong nửa thế kỷ qua.
Bác sĩ Kiệt cũng là người gắn bó với Vụ Tổ chức Cán bộ 25 năm, kinh qua tất cả các bộ phận như công tác tổ chức, công tác cán bộ, chế độ chính sách và bảo vệ chính trị nội bộ với vai trò là một chuyên viên. Nhân kỉ niệm 55 năm ngày thành lập Vụ Tổ chức Cán bộ, ông đã có cuộc trò chuyện với PV Báo GĐ&XH.
Bác sĩ Nguyễn Đức Kiệt sinh năm 1942, quê Phú Xuyên (Hà Tây cũ). Bác sĩ Kiệt đã cùng đồng nghiệp nghiên cứu sưu tầm tư liệu, chấp bút cho cuốn kỷ yếu công phu nhân kỷ niệm 55 năm hình thành và phát triển của Vụ Tổ chức Cán bộ - Bộ Y tế, giúp người đọc có thể hình dung được sự phát triển của Vụ Tổ chức Cán bộ nói riêng, ngành Y tế nói chung trong nửa thế kỷ qua.
Xây dựng trạm y tế dân lập
Là người đóng góp rất nhiều công sức nghiên cứu lịch sử công tác Tổ chức cán bộ của ngành Y tế, ông đánh giá như thế nào về quá trình hoàn thiện bộ máy của Vụ Tổ chức Cán bộ?
- Y tế là một ngành đặc thù liên quan đến dân sinh nên được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm từ những ngày đầu. Giai đoạn 1945 -1954, ngay sau ngày 2/9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được ra đời, Bộ Y tế đã được thành lập trên cơ sở bộ máy và nhân sự của Tổng thanh tra Y tế Đông Dương cũ do BS Phạm Ngọc Thạch làm Bộ trưởng. Bộ Y tế lúc bấy giờ chưa chia thành hệ thống mà mới chỉ có ở cấp TƯ hay nói ví von là ngành y tế lúc ấy mới chỉ có ngọn mà chưa có gốc. Đặc điểm trong giai đoạn này là kết hợp Đông – Tây y và kết hợp quân - dân y mạnh mẽ. Từ những năm 1950, Bộ Y tế đã bắt đầu chấn chỉnh tổ chức ngành Y tế, xác định tổ chức ngành y tế phải bao gồm y tế TƯ và địa phương. Đến 31/7/1952, Bộ Y tế có Thông tư 11-ZYO –TT3 về xây dựng hệ thống mạng lưới y tế từ TƯ đến tuyến xã.
Từ năm 1954- 1975, đây là thời kỳ phát triển tổ chức của ngành y tế thành một hệ thống hoàn chỉnh, phủ kín khắp cả nước, tạo tiền đề cho việc xây dựng một ngành y tế chính quy, hiện đại sau này.
Đối với tổ chức y tế tuyến TƯ, ngày 19/7/1955 là một ngày quan trọng. Đó là ngày ra đời Phòng Tổ chức cán bộ thuộc Bộ Y tế. Chỉ một năm sau đó, Bộ trưởng Hoàng Tích Trí đã chính thức ra quyết định thành lập Vụ Tổ chức Cán bộ, có nhiệm vụ nghiên cứu thành lập, chỉnh đốn và theo dõi tổ chức, nghiên cứu sắp xếp theo biên chế, nghiên cứu xây dựng các quy chế chính sách và giải quyết quyền lợi cho cán bộ công nhân viên; giúp Bộ quản lí cán bộ, nhân viên về mặt điều động, thuyên chuyển, tuyển dụng, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật, thống kê, theo dõi học tập chính trị, thi đua...
Giai đoạn 1954-1975 là giai đoạn chiến tranh khốc liệt, đất nước bị chia cắt. Nghiên cứu lịch sử phát triển của ngành, ông thấy trong khoảng thời gian đó, Vụ Tổ chức Cán bộ đã có những tham mưu gì để ngành Y làm tốt công việc của “người chiến sĩ áo trắng”?
- Ngay từ đầu năm 1960, Đảng ta đã nêu rõ quan điểm phát triển ngành y tế theo bốn phương châm. Thứ nhất, y tế phải phục vụ nhân dân, phục vụ sản xuất, xây dựng quốc phòng. Thứ 2, phải lấy vệ sinh phòng bệnh là chính, kết hợp với chữa bệnh. Thứ 3, công tác y tế phải dựa vào nhân dân, vào tổ chức quần chúng. Thứ 4, phải kết hợp Tây y và Đông y; phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng. Bốn phương châm đó là kim chỉ nam cho các hoạt động của ngành, kể cả công tác tổ chức cán bộ.
Vụ Tổ chức Cán bộ đã tham mưu cho lãnh đạo Bộ Y tế để phục vụ tốt các phương châm đó. Năm 1959, chúng ta đã có trạm y tế dân lập hình thành trên toàn bộ miền Bắc, người dân được chăm sóc y tế ngay từ các thôn bản thay vì chỉ là ông lang, bà mế như trước đây. Tuy GDP lúc đó của Việt Nam rất thấp nhưng chỉ số phát triển con người (HDI) lại khá cao. Có được kết quả đó là nhờ y tế cơ sở. Trong hội nghị Amata năm 1978, Việt Nam được coi là một điển hình trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu. Vụ Tổ chức Cán bộ cũng có công rất lớn trong thành công đó.
- Y tế là một ngành đặc thù liên quan đến dân sinh nên được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm từ những ngày đầu. Giai đoạn 1945 -1954, ngay sau ngày 2/9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được ra đời, Bộ Y tế đã được thành lập trên cơ sở bộ máy và nhân sự của Tổng thanh tra Y tế Đông Dương cũ do BS Phạm Ngọc Thạch làm Bộ trưởng. Bộ Y tế lúc bấy giờ chưa chia thành hệ thống mà mới chỉ có ở cấp TƯ hay nói ví von là ngành y tế lúc ấy mới chỉ có ngọn mà chưa có gốc. Đặc điểm trong giai đoạn này là kết hợp Đông – Tây y và kết hợp quân - dân y mạnh mẽ. Từ những năm 1950, Bộ Y tế đã bắt đầu chấn chỉnh tổ chức ngành Y tế, xác định tổ chức ngành y tế phải bao gồm y tế TƯ và địa phương. Đến 31/7/1952, Bộ Y tế có Thông tư 11-ZYO –TT3 về xây dựng hệ thống mạng lưới y tế từ TƯ đến tuyến xã.
Từ năm 1954- 1975, đây là thời kỳ phát triển tổ chức của ngành y tế thành một hệ thống hoàn chỉnh, phủ kín khắp cả nước, tạo tiền đề cho việc xây dựng một ngành y tế chính quy, hiện đại sau này.
Đối với tổ chức y tế tuyến TƯ, ngày 19/7/1955 là một ngày quan trọng. Đó là ngày ra đời Phòng Tổ chức cán bộ thuộc Bộ Y tế. Chỉ một năm sau đó, Bộ trưởng Hoàng Tích Trí đã chính thức ra quyết định thành lập Vụ Tổ chức Cán bộ, có nhiệm vụ nghiên cứu thành lập, chỉnh đốn và theo dõi tổ chức, nghiên cứu sắp xếp theo biên chế, nghiên cứu xây dựng các quy chế chính sách và giải quyết quyền lợi cho cán bộ công nhân viên; giúp Bộ quản lí cán bộ, nhân viên về mặt điều động, thuyên chuyển, tuyển dụng, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật, thống kê, theo dõi học tập chính trị, thi đua...
Giai đoạn 1954-1975 là giai đoạn chiến tranh khốc liệt, đất nước bị chia cắt. Nghiên cứu lịch sử phát triển của ngành, ông thấy trong khoảng thời gian đó, Vụ Tổ chức Cán bộ đã có những tham mưu gì để ngành Y làm tốt công việc của “người chiến sĩ áo trắng”?
- Ngay từ đầu năm 1960, Đảng ta đã nêu rõ quan điểm phát triển ngành y tế theo bốn phương châm. Thứ nhất, y tế phải phục vụ nhân dân, phục vụ sản xuất, xây dựng quốc phòng. Thứ 2, phải lấy vệ sinh phòng bệnh là chính, kết hợp với chữa bệnh. Thứ 3, công tác y tế phải dựa vào nhân dân, vào tổ chức quần chúng. Thứ 4, phải kết hợp Tây y và Đông y; phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng. Bốn phương châm đó là kim chỉ nam cho các hoạt động của ngành, kể cả công tác tổ chức cán bộ.
Vụ Tổ chức Cán bộ đã tham mưu cho lãnh đạo Bộ Y tế để phục vụ tốt các phương châm đó. Năm 1959, chúng ta đã có trạm y tế dân lập hình thành trên toàn bộ miền Bắc, người dân được chăm sóc y tế ngay từ các thôn bản thay vì chỉ là ông lang, bà mế như trước đây. Tuy GDP lúc đó của Việt Nam rất thấp nhưng chỉ số phát triển con người (HDI) lại khá cao. Có được kết quả đó là nhờ y tế cơ sở. Trong hội nghị Amata năm 1978, Việt Nam được coi là một điển hình trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu. Vụ Tổ chức Cán bộ cũng có công rất lớn trong thành công đó.
Chính sách linh hoạt, mềm dẻo
Đạt được những thành tựu đó là nhờ sự lãnh đạo chỉ đạo mềm dẻo, năng động, sáng tạo của Đảng, Nhà nước, của ngành y nói chung và sự tham mưu của Vụ Tổ chức Cán bộ nói riêng. Ông có thể kể một vài điều làm ông ấn tượng nhất?
- Do nhu cầu về cán bộ phục vụ chiến trường nên Vụ Tổ chức Cán bộ đã tham mưu cho lãnh đạo mở ra nhiều loại hình đào tạo từ 3 tháng đến 18 tháng, trong một thời gian ngắn đã đáp ứng được về mặt nhân lực. Ngày đó còn có một khái niệm tếu táo như “bác sĩ một chi”. Chiến tranh nên thương vong nhiều về tứ chi, do nhu cầu gấp rút nên người học chỉ cần học qua lý thuyết rồi thực hành. Ví dụ chỉ cần học chắp nối tay phải hoặc tay trái rồi vận dụng chứ không nhất thiết phải học nối cả 2 tay. Như vậy sẽ tiết kiệm được thời gian để gấp rút phục vụ chiến trường.
Thời kỳ này Vụ Tổ chức Cán bộ cũng đã tham mưu, đề xuất cho Bộ Y tế và Nhà nước những chính sách, chế độ như chính sách đối với người lao động có tính đặc thù trong ngành y tế và những người làm công tác y tế ở những ngành khác. Chính sách đối với người lao động làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, chính sách thai sản...
Là một ngành giao lưu với quốc tế rất sớm, mỗi năm có hàng nghìn cán bộ y tế ra nước ngoài cũng như từ nước ngoài vào Việt Nam. Trong mỗi giai đoạn đều có những yếu tố “nhạy cảm” khác nhau. Là nơi chịu trách nhiệm bảo vệ công tác nội bộ, nhờ đâu mà Vụ Tổ chức Cán bộ đã làm rất tốt vấn đề này?
Y tế là ngành có mối quan hệ quốc tế rất sớm, nhưng do làm tốt công tác bảo vệ nội bộ nên dù chiến tranh hay hòa bình đều không để xẩy ra những trường hợp đáng tiếc. Vụ Tổ chức Cán bộ cũng đã hết sức linh hoạt, mềm dẻo trong việc tham mưu.
Thập niên 80 là thời kỳ lao đao của ngành y tế khi phá bỏ bao cấp, phát triển theo kinh tế thị trường. Sau 10 năm nghiên cứu, Vụ Tổ chức đã tham mưu cho Bộ để xây dựng những mô hình phù hợp để y tế thoát khỏi khủng hoảng. Cho phép mở phòng mạch tư, xây dựng chế độ bảo hiểm y tế...
Từ năm 1980 đến năm 1986, Vụ Tổ chức Cán bộ đã xây dựng được các chức danh ngành y tế và tiêu chuẩn các chức danh, các quyền hạn, trách nhiệm... Xây dựng chế độ đặc thù như trực làm thêm giờ, độc hại, lây nhiễm. Thực hiện đa khoa hóa tuyến dưới và chuyên khoa hóa tuyến trên.
Qua 25 năm công tác, trải qua nhiều lĩnh vực công tác của Vụ, cảm nhận của ông về công việc này như thế nào?
- Lúc nào tôi cũng thấy thiếu kiến thức và khi nhìn lại chưa bao giờ tôi thấy hài lòng với kết quả công việc của mình. Nhưng do tôi được học về nghiệp vụ khoa học tổ chức trước khi vào làm ở Vụ nên công việc có thuận lợi hơn.
Theo tôi, đặc thù của công việc tổ chức cán bộ quan trọng nhất là xây dựng được mô hình phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội của đất nước.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!
Vy Vy (thực hiện)
Báo GD&XH, ngày 27/08/2010
- Do nhu cầu về cán bộ phục vụ chiến trường nên Vụ Tổ chức Cán bộ đã tham mưu cho lãnh đạo mở ra nhiều loại hình đào tạo từ 3 tháng đến 18 tháng, trong một thời gian ngắn đã đáp ứng được về mặt nhân lực. Ngày đó còn có một khái niệm tếu táo như “bác sĩ một chi”. Chiến tranh nên thương vong nhiều về tứ chi, do nhu cầu gấp rút nên người học chỉ cần học qua lý thuyết rồi thực hành. Ví dụ chỉ cần học chắp nối tay phải hoặc tay trái rồi vận dụng chứ không nhất thiết phải học nối cả 2 tay. Như vậy sẽ tiết kiệm được thời gian để gấp rút phục vụ chiến trường.
Thời kỳ này Vụ Tổ chức Cán bộ cũng đã tham mưu, đề xuất cho Bộ Y tế và Nhà nước những chính sách, chế độ như chính sách đối với người lao động có tính đặc thù trong ngành y tế và những người làm công tác y tế ở những ngành khác. Chính sách đối với người lao động làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, chính sách thai sản...
Là một ngành giao lưu với quốc tế rất sớm, mỗi năm có hàng nghìn cán bộ y tế ra nước ngoài cũng như từ nước ngoài vào Việt Nam. Trong mỗi giai đoạn đều có những yếu tố “nhạy cảm” khác nhau. Là nơi chịu trách nhiệm bảo vệ công tác nội bộ, nhờ đâu mà Vụ Tổ chức Cán bộ đã làm rất tốt vấn đề này?
Y tế là ngành có mối quan hệ quốc tế rất sớm, nhưng do làm tốt công tác bảo vệ nội bộ nên dù chiến tranh hay hòa bình đều không để xẩy ra những trường hợp đáng tiếc. Vụ Tổ chức Cán bộ cũng đã hết sức linh hoạt, mềm dẻo trong việc tham mưu.
Thập niên 80 là thời kỳ lao đao của ngành y tế khi phá bỏ bao cấp, phát triển theo kinh tế thị trường. Sau 10 năm nghiên cứu, Vụ Tổ chức đã tham mưu cho Bộ để xây dựng những mô hình phù hợp để y tế thoát khỏi khủng hoảng. Cho phép mở phòng mạch tư, xây dựng chế độ bảo hiểm y tế...
Từ năm 1980 đến năm 1986, Vụ Tổ chức Cán bộ đã xây dựng được các chức danh ngành y tế và tiêu chuẩn các chức danh, các quyền hạn, trách nhiệm... Xây dựng chế độ đặc thù như trực làm thêm giờ, độc hại, lây nhiễm. Thực hiện đa khoa hóa tuyến dưới và chuyên khoa hóa tuyến trên.
Qua 25 năm công tác, trải qua nhiều lĩnh vực công tác của Vụ, cảm nhận của ông về công việc này như thế nào?
- Lúc nào tôi cũng thấy thiếu kiến thức và khi nhìn lại chưa bao giờ tôi thấy hài lòng với kết quả công việc của mình. Nhưng do tôi được học về nghiệp vụ khoa học tổ chức trước khi vào làm ở Vụ nên công việc có thuận lợi hơn.
Theo tôi, đặc thù của công việc tổ chức cán bộ quan trọng nhất là xây dựng được mô hình phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội của đất nước.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!
Vy Vy (thực hiện)
Báo GD&XH, ngày 27/08/2010